Chi phí bán hàng của Vinamilk “khủng” như thế nào?

This gallery contains 2 photos.

 Các đại gia ngành thực phẩm luôn chi rất mạnh cho công tác bán hàng. Cơ cấu các khoản chi thành phần trong chi phí bán hàng 9 tháng đầu năm 2012 của Vinamilk Ngành hàng tiêu dùng nói chung và thực phẩm nói riêng luôn cần phải chi rất mạnh cho hoạt động bán … Tiếp tục đọc

An toàn tài chính: Lợi thế không thuộc CTCK nhỏ

Bình quân tỷ lệ an toàn vốn khả dụng của các công ty chứng khoán tính đến ngày 30/06/2012 đạt 278%. Trong đó, 49% rủi ro của các công ty này đến từ biến động thị trường. Tính đến ngày 28/8, dữ liệu của Vietstock cho thấy toàn thị trường đã có 93 công ty … Tiếp tục đọc

Doanh nghiệp và đòn bẩy kinh doanh, đòn bẩy tài chính

Trong lĩnh vực tài chính, thuật ngữ “ đòn bẩy” được sử dụng thường xuyên. Cả nhà đầu tư lẫn doanh nghiệp đều sử dụng đòn bẩy nợ để tạo ra tỷ suất sinh lợi trên tài sản hoạt động lớn hơn. Tuy nhiên, sử dụng đòn bẩy tài chính không hề là một sự đảm bảo chắc chắn thành công và khả năng xuất hiện các khoản lỗ cũng tăng lên nếu nhà đầu tư hay doanh nghiệp ở vào một vị thế có tỷ lệ đòn bẩy nợ cao. Doanh nghiệp thường hay sử dụng 2 loại đòn bẩy: đòn bẩy hoạt động và đòn bẩy tài chính.

Đòn bẩy hoạt động liên quan đến kết quả của các cách kết hợp khác nhau giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi. Nói rõ ràng hơn thì, tỷ số giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi mà công ty sử dụng đã quyết định đòn cân nợ hoạt động bao nhiêu. Một công ty có tỷ số chi phí cố định so với chi phí biến đổi lớn hơn thì được cho là sử dụng đòn bẩy hoạt động nhiều hơn.  Và ngược lại nếu chi phí biến đổi của một công ty lớn hơn chi phí cố định thì công ty được cho là có đòn bẩy hoạt động hơn. Đặc điểm ngành mà công ty đang hoạt động cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc công ty leverage.jpgquyết định nên sử dụng bao nhiêu đòn bẩy nợ. Một công ty với doanh số ít mà có lợi nhuận biên tế cao được xem là có sử dụng đòn bẩy hoạt động cao. Mặt khác, một công ty có doanh số lớn với mức lợi nhuân biên tế thấp được xem là sử dụng đòn bẩy thấp.

Đòn bẩy tài chính xuất hiện khi công ty quyết định tài trợ cho phần lớn tài sản của mình bằng nợ vay. Các công ty chỉ làm điều này khi nhu cầu vốn cho đầu tư của doanh nghiệp khá cao mà vốn chủ sở hữu không đủ để tài trợ. Khoản nợ vay của công ty sẽ trở thành khoản nợ phải trả, lãi vay được tính dựa trên số nợ gốc này. Một doanh nghiệp chỉ sử dụng nợ khi nó có thể tin chắc rằng tỷ suất sinh lợi trên tài sản cao hơn lãi suất vay nợ.

Một công ty đồng thời có tỷ lệ đòn bẩy hoạt động và đòn bẩy tài chính cao thì sẽ rất rủi ro trong đầu tư khá lớn. Một tỷ lệ đòn bẩy hoạt động cao có nghĩa là doanh nghiệp đang tạo ra ít doanh thu nhưng có lợi nhuân biên tế trên mỗi đơn vị sản phẩm cao. Điều này tiềm ẩn rủi ro cho việc dự báo chính xác doanh thu trong tương lai. Chỉ cần một sự sai lệch nhỏ trong dự báo doanh thu so với thực tế diễn ra thì nó đã có thể tạo ra một khoảng cách sai lệch đáng kể giữa dòng tiền thực tế và dòng tiền theo dự toán. Điều này rất quan trọng, nó có thể sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng hoạt động của công ty trong tương lai. Rủi ro doanh nghiệp gặp phải sẽ tăng lên cực đại khi tỷ lệ đòn bẩy hoạt động cao kết hợp thêm với tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao trong khi tỷ suất sinh lợi trên tài sản không cao hơn mức lãi suất vay nợ. Từ đó có thể làm giảm tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) và lợi nhuận của doanh nghiệp.

Theo Taichinh&QTKD/Investopedia

Chuẩn mực Báo cáo tài chính Quốc tế (IFRS)

an Lydall
Tổng Giám đốc PWC

Chuẩn mực kế toán quốc tế là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp, tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán thống nhất trong công tác báo cáo tài chính (BCTC).

Khi mới ban hành, các chuẩn mực tập trung vào mục đích đáp ứng yêu cầu của các tổ chức hoạt động động trong những nền kinh tế đang phát triển, song từ năm 2000 đến nay lại chú trọng hơn đến việc hỗ trợ cho cổ đông và các đối tượng khác tham gia vào thị trường vốn thế giới trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Do đó, Ủy ban các Chuẩn mực Kế toán Quốc tế đã chuyển trọng tâm sang xây dựng các chuẩn mực phức tạp hơn, có thể bắt buộc các thị trường vốn trên toàn thế giới phải tôn trọng. Tuy nhiên, việc làm này đã tạo ra một khoảng cách lớn giữa chi phí để soạn lập các báo cáo tài chính tuân thủ với các Chuẩn mực Báo cáo tài chính Quốc tế (IFRS) và những lợi ích gia tăng đối với người sử dụng về phương diện tính phù hợp và độ tin cậy của thông tin tại những nền kinh tế đang phát triển.

Tuân thủ IFRS – Xu thế tất yếu tại Việt Nam

Bộ Tài chính có nhiệm vụ xây dựng các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS), về cơ bản dựa trên IFRS. Bộ Tài chính đã ban hành được 22 VAS và dự kiến ban hành một số chuẩn mực mới trong năm 2006. Một số VAS đã ban hành về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được một số phương diện phức tạp của IFRS, như việc đánh giá các công cụ phát sinh theo giá trị hợp lý theo quy định của Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS) 39, kế toán việc mua bán doanh nghiệp theo IFRS 3 hay ghi nhận lỗ do giảm giá trị tài sản theo IAS36. Tuy nhiên, một số VAS được ban hành trong thời gian gần đây và các VAS tiếp tục được ban hành đã đáp ứng được những vấn đề chuyên môn có tính phức tạp hơn.

Hiện này, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng VAS trong việc lập BCTC theo luật định và áp dụng IFRS trong công tác báo cáo cho tập đoàn. Hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều áp dụng VAS và một số cũng lập BCTC theo IFRS. Việt Nam ngày càng mở cửa, hội nhập và trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ trở thành thành viên của WTO, ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và lập BCTC cho tập đoàn theo IFRS. Hơn nữa, ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam tìm cách gia tăng xuất khẩu và thiết lập hoạt động ở nước ngoài, do đó, họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn và yêu cầu phải lập BCTC theo IFRS.

Thách thức của doanh nghiệp khi tuân thủ IFRS.

Các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam là đối tượng đang chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ việc áp dụng IFRS trong VAS và qua công tác BCTC ra nước ngoài theo IFRS. Ngay cả những doanh nghiệp không gửi BCTC ra nước ngoài cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, phải nâng cao năng lực về VAS cho đội ngũ nhân viên và đầu tư vào các hệ thống có thể đáp ứng được các yêu cầu thông tin mới của các VAS mới. Do vậy, các doanh nghiệp cần thay đổi, bao gồm việc áp dụng BCTC hợp hất và bứt ra khỏi môi trường “các nguyên tắc kế toán dựa trên thuế”. Việc bứt ra khỏi các nguyên tắc kế toán thuế đòi hỏi phải áp dụng khái niệm thuế kỳ sau nhằm đảm bảo tổng chi phí thuế trong BCKQHĐKD của doanh nghiệp là số thuế phát sinh trong kỳ.

Để VAS tiệm cận với IFRS, thách thực đầu tiên là xây dựng một đội ngũ nhân viên kế toán và tài chính có năng lực. Đây không phải là một công việc dễ dàng vì IFRS được cọi là rất phức tạp, ngay cả ở những nền kinh tế phát triển. Kế toán viên Việt Nam sẽ gặp nhiều khái niệm mới và các phương pháp hạch toán mới không có trong hệ thống kế toán Việt Nam. Thay vào đó, phương pháp hạch toán các giao dịch theo IFRS dựa trên bản chất của giao dịch, do đó yêu cầu phải có xét đoán và đánh giá mang tính phân tích của cán bộ quản lý, những người sẽ tham vấn nhân viên kế toán của minh.

Thách thức thứ hai là việc xây dựng các hệ thống nhân viên kế toán đủ năng lực, có thể lưu trữ toàn bộ dữ liệu liên quan của các giao dịch, đảm bảo việc xử lý giao dịch đầy đủ, chính xác và đưa ra được các phân tích tài chính chi tiết. Việc áp dụng đúng các phương pháp hạch toán phù hợp và các yêu cầu trình bày và thuyết minh theo IFRS có thể đòi hỏi phải ghi chép những thông tin mà doanh nghiệp hiện không lưu giữ.

Những công việc đó chỉ có thể thực hiện với sự hỗ trợ của Hội đồng quản trị doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần thiết lập hệ thống và qui trình để đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực kế toán áp dụng. Việc quản lý công tác BCTC, trong đó có yêu cầu tuân thủ và kiểm toán nội bộ, cần được tăng cường nhằm đảm bảo tính trung thực của BCTC.

Với sức ép và sự giám sát ngày càng cao của công chúng và các cơ quan quản lý, trong khi việc chuyển đổi sang IFRS cần nhiều thời gian, doanh nghiệp không thể bỏ qua vấn đề này nếu muốn thành công trong môi trường cạnh tranh. Việc lập lộ trình để áp dụng IFRS, bao gồm nâng cao nhân thức, đào tạo và xây dựng hệ thống là cấp bách và bắt buộc.

(Theo Tạp chí Kế toán)

Chuyển dịch từ IAS sang IFRS – Quốc tế và Việt Nam

Có rất nhiều người đặt câu hỏi về sự khác biệt giữa IAS (Chuẩn mực kế toán quốc tế) IFRS (Chuẩn mực lập Báo cáo tài chính quốc tế). Sự khác biệt đầu tiên ai cũng có thể nhận thấy đó là người ta đã thay chữ A (Accounting – Kế toán) sang chữ FR (Financial Reporting- Lập Báo cáo tài chính). Sự thay đổi này nghe cố vẻ đơn giản nhưng thực sự là một bước đột phá và không chỉ thuần túy về từ ngữ mà bản chất là một sự thay đổi lớn về tư duy kế toán. Trước đây, nói đến kế toán người ta nghĩ đến đúng định nghĩa của nó, đó là xác định, ghi chép, tổng hợp và trình bày thông tin tài chính cho người sử dụng. Có nghĩa là nhấn mạnh nhiều hơn đến đầu vào của thông tin tài chinh và quá trình xử lý thông tin. Yếu tố người thụ hưởng thông tin chỉ chiếm một phần khiêm tốn. Tuy nhiên, khái niệm Financial Reporting có ý nghĩa bao hàm hơn, tôn vinh hơn vai trò của người làm công tác kế toán. Cán cân nghiêng hơn về việc trình bày thông tin tài chính như thế nào để đảm bảo lợi ích cao hơn của các đối tượng sử dụng thông tin (báo cáo tài chính) được lập ra từ kết quả của công việc kế toán.

 
 

– IAS đứng trên một khía cạnh nào đó mang tính nguyên tắc “giá gốc” nhiều hơn. Cùng với sự chuyển đổi qua IFRS, nguyên tắc “giá trị hợp lý” được đề cập đến nhiều hơn. Mọi hoạt động trên thế giới hiện nay đều có những biến chuyển mạnh mẽ, khiến cho nguyên tắc giá gốc nhiều khi không còn phù hợp. Sự gia tăng mạnh của các công cụ tài chính, nhất là công cụ phái sinh, việc đầu tư nhiều vào các lĩnh vực giá trị gia tăng, công nghệ thông tin thay đổi từng phút… khiến cho giá gốc các tài sản, công nợ… quá xa so với giá trị thực tế tại thời điểm xem xét. IAS cũng có đề cập đến vấn đề nguyên tắc giá trị hợp lý trong một số chuẩn mực, tuy nhiên vẫn còn chưa đủ, gặp phải nhiều vấn đề chưa giải quyết được, không đồng bộ và khó tư duy trong bối cảnh khái niệm- “giá gốc” đã ăn sâu vào trong tiềm thức của nhiều thế hệ đi trước và lâu năm trong nghề tài chính, kế toán nhất là trong tư tưởng kế hoạch hóa.
– Cùng với việc ra đời IFRS, đó là sự thay đổi về cơ chế quy định của từng quốc gia về các chuẩn mực cần tuân thủ. Trước đây, các nước thường có các quy định riêng của mình, gọi là nguyên tắc kế toán được chấp nhận (GAAP), ví dụ Canada có Canada GAAP, nước Mỹ có US GAAP. Các nước cộng đồng chung Châu Âu cũng có những quy định chuẩn mực của nước mình và đi theo IAS đối với các công ty được niêm yết. Có hai khó khăn lớn mà ai cũng có thế nhìn thấy, đó là:
+ Đối với các công ty được thành lập tại nước này nhưng lại niêm yết tại nước khác: ví dụ khi công ty A thành lập tại EU và tuân thủ IAS khi lập BCTC nhưng khi công ty đó niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ thì việc đầu tiên là phải chuyển đổi sang Báo cáo tài chính theo chuẩn mực US GAAP. Hãy nhớ rằng sự khác biệt không phải là nhỏ giữa hai hệ thống chuẩn mực này, và sự khác biệt đó đã làm ảnh hưởng đến các công ty trong việc bỏ thời gian và chi phí để chuyển đổi báo cáo tài chính, kiểm toán theo báo cáo mới…, và xa hơn nữa, chính là sự hao tổn nguồn lực để nhận thức được của toàn xã hội.

+ Tương tự như vậy đối với các công ty có công ty mẹ ở nước này nhưng các công ty thành viên (công ty con) ở nước khác, việc hợp nhất báo cáo tài chính theo chuẩn mực của công ty mẹ cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, do các công ty con ở các nước khác với công ty mẹ và áp dụng chuẩn mực kế toán khác.

Việc chuyển sang một chuẩn mực chung hiển nhiên đã tạo điều kiện rất nhiều cho những người lập và đọc báo cáo tài chính được viết theo một ngôn ngữ chung cho toàn cầu. Đồng thời tăng tính minh bạch thông tin cho người sử dụng, từ đó hỗ trợ người sử dụng trong quá trình ra quyết định, tránh được những yếu tố bất lợi gây ra do hạn chế trong việc đọc hiểu thông tin tài chính.

– Theo khảo sát của Ủy ban kế toán quốc tế của IFAC cuối năm 2007, việc áp dụng  IFRS cũng làm thay đổi tư duy và thái độ của Ban giám đốc. Khảo sát cho thấy ở nhều doanh nghiệp trước đây, Ban giám đốc không dành nhiều thời gian cho việc đọc hiểu báo cáo, cũng không thực sự hỗ trợ cho các bộ phận tài chính trong việc hoàn thành báo cáo tài chính đúng hạn.
Việc chuyển đổi từ IAS sang IFRS khiến các Giám đốc cảm thấy có trách nhiệm cao hơn, dành nhiều thời gian hơn cho việc nghiên cứu IFRS, cũng vì lẽ đó chất lượng, tính chính xác, tính hợp lý cùa thông tin được nâng lên.

 
 

– Một yếu tố sâu hơn đó là sự thay đổi từ Tiêu điểm hòa hợp sang Tiêu điểm Hội tụ. Nếu như trước đây người ta nói rằng làm sao để Chuẩn mực kế toán áp dụng ở nước A có thể hòa hợp được với nước B và nước C. Điều đấy có nghĩa là vẫn có nhiều sự khác biệt và chúng ta cố gắng dung hòa. Nói một cách hình tượng hơn, đó là sự cố gắng đưa các các hệ thống chuẩn mực kế toán của các nước chạy song song với nhau. Với IFRS, đó là một sự cố gắng để các chuẩn mực giữa các nước tiến gần đến với nhau hơn theo một thông lệ chung, và đến một ngày nào đó các đường thẳng sẽ gặp nhau tại một điểm.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi này cũng không hoàn toàn thuận lợi. Khảo sát của IFAC cho thấy cũng có khá nhiều ý kiến không đồng tính.

– Để đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài chính, nguyên tắc giá trị hợp lý được đưa vào thành yếu tố chủ đạo. Tuy nhên, có rất nhiều trường hợp mà thị trường hoạt động là không thể có được, và giá trị hợp lý khi đó trở thành một sự ước lượng thiếu cơ sở, do đó mục tiêu có được thông tin đáng tin cậy đã không đạt được.

– Mặc dù có nhiều lớp đào tạo, hội thảo về chuyển đổi nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn không thể tự làm được theo các quy định mới. Lựa chọn của họ là thuê các công ty kiểm toán hoặc các công ty làm dịch vụ kế toán giúp đỡ. Tuy nhiên ngay cả các công ty kiểm toán lớn đặt tại các nước nhỏ, đôi khi cũng còn phải cần đến sự viện trợ từ công ty mẹ trong việc diễn giải các chuẩn mực. Và như vậy mong muốn có được tính nhất quán đã làm giảm tốc độ cung cấp thông tin tài chính.

-Chi phí đầu tư ban đầu khá lớn. Do doanh nghiệp bắt buộc phải xây dựng lại một hệ thống thu thập, xử lý và trình bày thông tin tài chính. Đó là việc đào tạo lại cho nhân viên, chuyển đổi lại hệ thống báo cáo, xây dựng lại các quy trình, thay đổi hệ thống phần mềm. Đối với các doanh nghiệp lớn áp dụng những phần mềm như ORRACLE, SAP thì xây dựng lại một phần mềm này tiêu tốn hàng triệu đô la. Đối với những doanh nghiệp nhỏ hơn, sử dụng phần mềm tầm trung như HASSAWORLD thì cũng phải dao động từ trăm ngàn đến triệu đôla.

 
 

– Đó là sự đánh đổi giữa việc sử dụng một hệ thống ổn định mặc dù có thể hơi lỗi thời nhưng ban quản lý có nhiều thời gian dành cho vận hành doanh nghiệp hơn, tạo ra nhiều lợi ích hơn cho doanh nghiệp. Và bên kia là ban giám đốc dành nhiều thời gian hơn cho sự cập nhật thường xuyên theo sự biến động của thế giới. Đối với nhiều doanh nghiệp chi phí cơ hội để theo cái mới là quá lớn so với lợi ích mà cá nhân doanh nghiệp đó thu đươc.

– Nhiều người cho rằng, chuẩn mực IFRS quá phức tạp và rất khó hiểu. Đối với những người sử dụng báo cáo tài chính (Nhất là những ngowif không có hoặc có ít kiến thức về kế toán) thì việc lấy thông tin tài chính từ đây đẻ hỗ trợ cho mục đích ra quyết định thực sự bị hạn chế. Sự phức tạp trong việc trình bày báo cáo tài chính, với mục đích làm cho báo cáo minh bạch hơn đã không làm được.

Mặc dù còn có những thông tin không thực sự đồng tình với việc chuyển đổi từ IAS sang IFRS, nhưng thực sự việc áp dụng đang có những yếu tổ chuyển mình rất khả quan. Tất nhiên sẽ còn là chặng đường dài để IFRS được nồng nhiệt đón chào và thực hiện ở nước đã, đang và sẽ áp dụng.

Mai Hương (Tạp chí Kiểm toán)
Tapchiketoan.com

Kế toán sáp nhập doanh nghiệp Kinh nghiệm quốc tế

Sáp nhập là hiện tượng phổ biến xuất hiện cùng với sự cạnh tranh khi một số các doanh nghiệp nhỏ và vừa muốn sáp nhập với nhau để gia tăng vốn và sức mạnh công nghệ chống lại sức cạnh tranh bão táp của thị trường. Thực trạng kế toán sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại những vướng mắc chưa được tháo gỡ. Mặc dù, trong những năm qua, Bộ tài chính và các ban ngành chức năng liên quan đã ban nhành nhiều văn bản pháp lý liên quan đến vấn đề này, nhưng những vấn đề cụ thể về kế toán vẫn chưa được đề cập đến trong chế độ kế toán cũng như các quyết định, Thông tư liên quan. Vì vậy. tác giải muốn đề cập đến những nội dung về kế toán sáp nhập doanh nghiệp theo kinh nghiệm kế toán quốc tế nhằm giúp bạn đọc một nội dung tham khảo. Mô hình kết hợp khi sáp nhập doanh nghiệp. Gọi A là công ty sáp nhập, A’ là công ty bị sáp nhập. Trong  giao dịch sáp nhập, công ty bị sáp nhập mang toàn bộ tài sản cũng như nợ phải trả của nó đến công ty nhận sáp nhập. Công ty bị sáp nhập giải thể, các cổ đông (thành viên góp vốn) của công ty này trở thành cổ đông (thành viên góp vốn) của công ty A. Kết quả là công ty A cần tăng vốn của mình bằng đúng giá trị mà công ty A’ mang đến để có trách nhiệm đối với các cổ đông (thành viên góp vốn) mới đến từ công ty A’. Ta có thể mô tả quá trình trên bằng sơ đồ 1.1:

 

Vốn chủ sở hữu của công ty sau khi sáp nhập bằng vốn chủ sở hữu của cong ty trước khi sáp nhập cộng với giá trị tài sản thuần của công ty bị sáp nhập. Công ty A phải thực hiện một sự trao đổi tương đương bằng cách phát hành cổ phiếu của mình để đổi lấy cổ phiếu cũ của các cổ đông công ty A’ theo một tỷ lệ nhất định. Do vây, ban lãnh đạo của công ty A và A’ phải cùng thỏa thuận để đi đến thống nhất tỷ lệ trao đổi cổ phiếu của A lấy cổ phiếu của A’.

Tiến trình sáp nhập doanh nghiệp

Bước 1: Xác định giá trị doanh nghiệp của công ty bị sáp nhập và nhận sáp nhập  

Bước 2: Tính giá trị trao đổi  

Các bút toán cần thiết khi sáp nhập tại hai đơn vị: Công ty sáp nhập và công tu bị sáp nhập như sau:  

Bước 3: Xác định giá trị mang sang của công ty bị sáp nhập

Giá trị mang sang của công ty bị sáp nhập có thể là giá trị ghi sổ tài sản thuần hoặc giá trị trao đổi.

Bước 4: Xác định phần tăng vốn của công ty sáp nhập

Giả sử có số liệu hai công ty A và A’ như sau:

Giá thị trường của tài sản cố định hữu hình là 10 089 600, hàng tồn kho có giá thị trường là 5 800 000, các khoản mục khác có giá trị bằng giá trị ghi sổ.

Bảng cân ối kế toán công ty A’

                Đơn vị tính: 1.000đ

 

Thông tin liên quan đến công ty A’: Giá trị thị trường của một số tài sản như sau: Giá trị nhà cửa vật kiến trúc: 750 000 Tài sản hữu hình khác: 415 000 Hàng tồn kho 800 000 Các khoản mục khác có giá trị ghi sổ bằng giá trị thị trường. Giải sử A’ sáp nhập vào A và A’ giải thể. Giá trị trao đổi và giá trị mang sang khác nhau

Bước 1: Xác định giá trị của công ty A và A’

Giá trị ghi sổ của hai công ty sau khi điều chỉnh theo giá thị trường:

 

 

Bước 2: Tính giá trị trao đổi

Tương quan trao đổi  = A/A’ = 164,62/200 = 0,7428 làm tròn 0.75 tức là 165/220 Tức 3 cổ phiếu của A’ đổi lấy 4 cổ phiếu của A Tổng giá trị trao đổi của hai công ty là: 165 x 80 000 = 13 200 000 của công ty A và 200 x 15 000 = 3 300 000 của công ty A’

Bước 3: Xác định giá trị mang sang của công ty A’

Theo giả thiết giá trị trao đổi và giá trị mang sang khác nhau nên giá trị mang sang của công ty A’ là giá trị tài sản thuần (giá trị ghi sổ) của nó: Giá trị tài sản thuần của công ty A’ = 3 260 000

Bước 4: Xác định phần tăng vốn ở công ty A 

 

Kế toán tại đơn vị bị sáp nhập (công ty A’):

 

b. Giá trị trao đổi và giá trị mang sang như nhau Bước 1,2 giống như trên. Bước 3: xác định giá trị mang sang của A’ Trường hợp này giá trị mang sang bằng giá trị trao đổi = 3 300 000 Bước 4: xác định phần tăng vốn ở công ty A

  

 

Kế toán tại đơn vị nhận sáp nhập (công ty A’):

Theo TS. NGUYỄN PHÚ GIANG – Tạp chí kiểm toán số 4

Theo tapchiketoan.com

Phân tích tài chính doanh nghiệp

Phân tích tài chính DN là việc xác định những điểm mạnh và những điểm yếu hiện tại của DN để tính toán những chỉ số khác nhau thông qua sử dụng những số liệu từ báo cáo tài chính của DN.

Tùy vào loại hình kinh doanh và đặc thù của ngành nghề kinh doanh, cán bộ nghiệp vụ cần phải tìm ra được các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu đã tính toán để đưa ra những nhận xét đánh giá về tình hình tài chính của DN ; một hoặc một số chỉ số là tốt cũng chưa thể kết luận là DN đang trong tình trạng tốt.

Bước 1: Kiểm tra hồ sơ tài chính của DN:

– Kiểm tra lại tính đầy đủ của hồ sơ về tình hình tài chính của DN của chủ đầu tư gửi đến có đúng, đủ theo quy định để phục vụ cho công tác thẩm định.

– Kiểm tính đầy đủ, tính pháp lý của các báo cáo tài chính: có đủ số lượng báo cáo? có đủ chữ ký của người có thẩm quyền? báo cáo có được kiểm toán?

Bước 2: Nắm thông tin về tình hình tài chính DN:

– Về số vốn điều lệ thực góp của công ty:

Trong đó: + Vốn bằng tiền:

+ Vốn bằng tài sản:

– Về khả năng sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu để tham gia góp vốn thực hiện dự án/phương án sản xuất-kinh doanh.

– Về tình hình tài chính của công ty thông qua các chỉ số tài chính.

Các chỉ số thông dụng thường sử dụng hỗ trợ cho việc phân tích đánh giá tình hình tài chính của DN:

I. Khả năng thanh toán:

Nhiều DN bị rơi vào tình trạng phá sản vì thiếu vốn, vì vậy cần phải kiểm tra khả năng của DN có thể trả được các khoản nợ thương mại và hoàn trả vốn vay hay không là một trong những cơ sở đánh giá sự ổn định, vững vàng về tài chính của DN, thông qua các chỉ tiêu:

1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát (Ktq):

Ktq

=

Tổng tài sản (MS270 BCĐKT)

Nợ phải trả (MS300 BCĐKT)

Hệ số này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ của DN. Hệ số này càng lớn thì khả năng thanh toán của DN càng tốt. Hệ số thanh toán nhỏ hơn giới hạn cho phép cho thấy sự thiếu hụt trong khả năng thanh toán, sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ của DN.

2. Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn (Kng):

Kng

=

Tài sản ngắn hạn (MS100 BCĐKT)

Nợ ngắn hạn (MS310 BCĐKT)

Hệ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn của DN bằng tài sản ngắn hạn hiện có.

Hệ số này càng lớn thì khả năng hoàn trả nợ ngắn hạn càng tốt. Ngược lại Hệ số này nhỏ hơn giới hạn cho phép sẽ cảnh báo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của DN gặp khó khăn, tiềm ẩn không trả được nợ đúng hạn.

3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh (Knh):

Knh

=

Vốn bằng tiền, các khoản tương đương tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn (MS110+120BCĐKT)

Nợ ngắn hạn (MS310 BCĐKT)

Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của DN bằng tiền và các chứng khoán ngắn hạn có thể chuyển đổi nhanh thành tiền mặt. Chỉ số này cho biết khả năng huy động các nguồn vốn bằng tiền để trả nợ vay ngắn hạn trong thời gian gần như tức thời.

Hệ số này càng lớn thì khả năng hoàn trả nợ ngắn hạn càng tốt. Ngược lại, Hệ số này nhỏ hơn giới hạn cho phép cho thấy trong trường hợp rủi ro bất ngờ, khả năng trả nợ ngay các khoản nợ ngắn hạn thấp.

II. Tính ổn định và khả năng tự tài trợ

1. Hệ số thích ứng dài hạn của TSCĐ (Ktu):

Ktu

=

Tà sản dài hạn (MS200 BCĐKT)

Vốn chủ sở hữu (MS400 BCĐKT)+Nợ dài hạn (MS330 BCĐKT)

Hệ số này phản ánh việc sử dụng vốn hợp lý của chủ đầu tư, hệ số này không được vượt quá 100%. Nếu hoạt động kinh doanh của DN vẫn ổn định, hệ số này càng nhỏ càng an toàn; nếu hệ số này > 100 cho thấy DN đã đầu tư tài sản dài hạn bằng những nguồn vốn có kỳ hạn ngắn (Ví dụ: như vay ngắn hạn) dòng tiền sẽ trở nên không ổn định, tiềm ẩn sự bất ổn định trong điều hành tài chính của DN. Nên đánh giá hệ số này đồng thời với hệ số tài sản dài hạn trên vốn chủ sở hữu.

2. Hệ số tài sản dài hạn trên vốn chủ sở hữu (Kts):

Kts

=

Tài sản dài hạn (MS 200BCĐKT)

Vốn chủ sở hữu (MS400 BCĐKT)

Hệ số này cho thấy mức ổn định của việc đầu tư tài sản bằng nguồn vốn chủ sở hữu, những khoản đầu tư vào TSCĐ có thể được tái tạo như mong muốn từ vốn chủ sở hữu vì những khoản đầu tư như vậy thường cần một khoản thời gian dài để tái tạo; hệ số càng nhỏ càng an toàn, phản ánh sự chủ động định đoạt về tài sản của chủ đầu tư.

3. Hệ số nợ (Ncsh):

Xác định hệ số này để đánh giá mức độ đảm bảo nợ vay bằng nguồn vốn chủ sở hữu

Ncsh

=

Nợ phải trả (MS 300BCĐKT)

Vốn chủ sở hữu (MS400 BCĐKT)

Hệ số này cho thấy khả năng thanh toán nợ bằng nguồn vốn chủ sở hữu; hệ số này càng nhỏ thì giá trị của vốn chủ sở hữu càng lớn vì nguồn vốn CSH là nguồn vốn không phải hoàn trả, cho thấy khả năng tự chủ về tài chính của DN càng tốt. Tuy nhiên nếu tỷ lệ này càng cao thì có một khả năng lớn là DN đang không thể trả được các khoản nợ theo điều kiện tài chính thắt chặt hoặc có sự kém cỏi trong quản lý, hoặc dòng tiền của DN sẽ kém đi do gánh nặng từ việc thanh toán các khoản lãi vay. Trong trường hợp giải thể DN, hệ số này cho biết mức độ được bảo vệ của các chủ nợ.

4. Hệ số vốn chủ sở hữu (Vcsh):

Vcsh

=

Vốn chủ sở hữu (MS 400BCĐKT)

Tổng Nguồn vốn (MS 440BCĐKT)

Hệ số vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn dùng để đo lường sự ổn định của việc tăng vốn. Bổ sung vào vốn góp bởi các cổ đông và các khoản dự trữ vốn thì vốn chủ sở hữu cũng góp phần tạo ra dự trữ cho vốn điều lệ và phần thặng dư (kể cả thu nhập giữ lại của DN).

Nguồn vốn này không cần được hoàn trả lại, vì vậy hệ số này càng cao, DN càng được đánh giá cao. Về cơ bản hệ số này có mục đích đánh giá như hệ số nợ.

5. Đối với DN đề nghị bảo lãnh vay vốn thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, cần lưu ý thêm:

5.1. Đánh giá sự hợp lý trong việc bố trí cơ cấu tài sản, nguồn vốn của DN thông qua các chỉ số:

+ Tỷ suất đầu tư vào TSCĐ = TSCĐ/ Tổng tài sản (%)

+ Tỷ suất đầu tư vào TSLĐ = TSLĐ/ Tổng tài sản (%)

Các chỉ số này cho biết tỷ trọng đầu tư vào các loại tài sản của DN , xu hướng biến động của Tổng tài sản qua các kỳ báo cáo, tính hợp lý trong việc bố trí về cơ cấu tài sản của DN tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh của DN.

5.2. So sánh đánh giá việc tăng giảm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn có tương ứng với việc tăng giảm tài sản lưu động, tài sản cố định không, để đánh giá việc bố trí cơ cấu nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn có hợp lý không.

III . Hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời

1. Hiệu quả sử dụng tài sản (DTts):

Hệ số này cho thấy kết quả mà DN đạt được trong năm thông qua việc tạo thu nhập trên tổng tài sản đã đưa vào hoạt động SXKD.

DTts

=

Doanh thu (MS 10+21+31KQHĐKD)

Tổng tài sản  (MS 270BCĐKT)

Hệ số này phản ánh tính năng động của DN , cho biết tổng vốn đầu tư vào tài sản được chuyển đổi bao nhiêu lần thành doanh thu. Nếu hệ số này thấp, có nghĩa là vốn đang không được sử dụng hiệu quả; có khả năng DN đang thừa hàng tồn kho, sản phẩm hàng hoá không tiêu thụ được hoặc tài sản nhàn rỗi hoặc vay tiền quá nhiều so với nhu cầu vốn thực sự. (Lưu ý đối với DN có quy mô lớn thì hệ số này có xu hướng nhỏ hơn so với DN có quy mô nhỏ).

2. Vòng quay hàng tồn kho (V):

Hệ số vòng quay hàng tồn kho đánh giá hiệu quả hoạt động của DN thông qua hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

V

=

Giá vốn hàng bán (MS 11KQHĐKD)

Hàng tồn kho bình quân  (MS 140BCĐKT)

Giá trị vòng quay hàng tồn kho càng lớn cho biết DN sử dụng vốn lưu động càng hiệu quả, góp phần nâng cao tính năng động trong sản xuất kinh doanh của DN . Vòng quay thấp là do DN lưu giữ quá nhiều hàng tồn kho, dòng tiền sẽ giảm đi do vốn kém hoạt động và gánh nặng trả lãi tăng lên, tốn kém chi phí lưu giữ và rủi ro khó tiêu thụ do không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng hoặc thị trường kém đi. Vòng quay hàng tồn kho của các DN có quy mô lớn có xu hướng cao hơn các DN có quy mô nhỏ. Riêng các DN thuộc lĩnh vực thương mại dịch vụ thì vòng quay hàng tồn kho có xu hướng càng lớn khi DN có quy mô hoạt động càng nhỏ.

3. Kỳ thu tiền bình quân (N):

N

=

Các khoản phải thu bình quân (MS 130BCĐKT)

x

360 ngày

Doanh thu thuần (MS 10+21+31KQHĐKD)

Hệ số này phản ánh số ngày cần thiết để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt.

Kỳ thu tiền bình quân đánh giá thời giá bình quân thực hiện các khoản phải thu của DN. Kỳ thu tiền bình quân phụ thuộc vào quy mô của DN và đặc thù của từng ngành nghề SXKD. Kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ thì vòng quay của các khoản phải thu càng nhanh, cho biết hiệu quả sử dụng nguồn vốn của DN càng cao.

4. Đối với DN đề nghị bảo lãnh vay vốn thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, cần phần tích thêm chỉ tiêu:

Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Tồn kho + Các khoản phải thu – Nợ ngắn hạn;

Chỉ tiêu này cho thấy nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên của DN trong năm. Chỉ tiêu càng lớn cho thấy nhu cầu về vốn lưu động của DN càng lớn và ngược lại.

Vòng quay vốn lưu động (vòng/năm)

Doanh thu thuần

       TSLĐ và ĐTNH bình quân
TSLĐ và ĐTNH bình quân = TSLĐ và ĐTNH đầu kỳ + TSLĐ và ĐTNH cuối kỳ

2

Tỷ lệ này cho biết vốn lưu động được chuyển bao nhiêu lần thành doanh thu. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ đồng vốn được sử dụng càng hiệu quả. Ngược lại, tỷ lệ này thấp đi có thể là DN sử dụng vốn kém hiệu quả (tài sản nhàn rỗi, thừa hàng tồn kho, vay quá nhiều tiền so với nhu cầu thực sự…)

5. Tỷ suất lợi nhuận trên Tổng vốn sử dụng:

LNnv

=

Tổng lợi nhuận trước thuế (MS 50KQHĐKD)

Tổng nguồn vốn bình quân (MS 440BCĐKT)

6. Tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trên Tổng vốn sử dụng:

LNkd

=

Tổng lợi nhuận thuần (MS 30KQHĐKD)

Tổng nguồn vốn bình quân (MS 440BCĐKT)

7. Tỷ suất lợi nhuận trên Vốn chủ sở hữu:

LNnv

=

Tổng lợi nhuận trước thuế (MS 50KQHĐKD)

Vốn chủ sở hữu (MS 400BCĐKT)

8. Tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trên Vốn chủ sở hữu:

LNkd

=

Tổng lợi nhuận thuần (MS 30KQHĐKD)

Vốn chủ sở hữu (MS 400BCĐKT)

9. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu::

LN dt

=

Tổng lợi nhuận trước thuế (MS 50KQHĐKD)

Doanh thu (MS 10+21+31KQHĐKD)

Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhận trên là những chỉ tiêu đánh giá tổng quát về tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động SXKD của DN.

Các tỷ suất này càng lớn thì thì DN sản xuất kinh doanh càng có hiệu quả; ngược lại, cho thấy DN đang gặp khó khăn trong hoạt động SXKD, cảnh báo tiềm ẩn rủi ro, đòi hỏi DN phải có biện pháp khắc phục.

IV. Sức tăng trưởng (TT)

Chỉ số sức tăng trưởng giúp cho người phân tích hiểu rõ mức độ tăng trưởng và sự mở rộng về quy mô của công ty. Chúng chỉ ra mức độ tăng trưởng hàng năm về doanh thu và lợi nhuận của DN. Trường hợp lý tưởng là tăng trưởng doanh thu đi liền với tăng trưởng lợi nhuận.

1. Sức tăng trưởng doanh thu:

1.1 Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu

TTdt

=

 

DThu năm sau (MS 10+21+31KQHĐKD)

1

Doanh thu năm trước (MS 10+21+31KQHĐKD)

1.2 Tỷ lệ tăng tưởng doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính

TTdtc

=

 

DThu từ HĐKD chính năm sau (MS 10+21KQHĐKD)

1

DThu từ HĐKD chính năm trước (MS 10+21KQHĐKD)

Đây là chỉ số quan trọng phản ánh mức độ tăng trưởng về doanh thu của DN cần ghi nhận:

– So với chỉ tiêu lạm phát: nếu chỉ tiêu tăng trưởng doanh thu tăng mà lạm phát giảm hoặc không tăng thì mức độ tăng trưởng theo chiều hướng tốt, số lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ tăng (và ngược lại)

– So sánh mức độ tăng trưởng của thị trường: nếu nhỏ hơn thì có nghĩa DN đang gặp khó khăn về khả năng cạnh tranh và thị phần trên thị trường.

2. Sức tăng trưởng lợi nhuận:

2.1 Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận

TTln

=

 

Tổng lợi nhuận năm sau (MS 50KQHĐKD)

1

Tổng lợi nhuận năm trước (MS 50KQHĐKD)

2.2 Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chính

TTlnt

=

 

Tổng lợi nhuận thuần năm sau (MS 30KQHĐKD)

1

Tổng lợi nhuận thuần năm trước (MS 30KQHĐKD)

Đây là chỉ số để xem xét mức độ tăng trưởng về lợi nhuận của DN. Khi sức tăng trưởng của doanh thu được đánh giá mức tăng trưởng về mặt số lượng thì tỷ lệ này đáng giá mức độ mở rộng về mặt chất lượng.

V. Định giá trên thị trường (áp dụng đối với DN phát hành cổ phiếu):

Cán bộ nghiệp vụ cũng cần phải phân tích thêm tình hình tài chính DN trên cơ sở giá trị trên thị trường, các chỉ số đánh giá cơ bản:

1. Chỉ số giá cả trên thu nhập 1 cổ phần:

Chỉ số này so sánh giá cổ phiếu với thu nhập tính trên 1 cổ phần.

Công thức tính:

Giá cổ phiếu

Thu nhập của một cổ phần

Tỷ lệ càng cao thì DN càng được đánh giá cao. Tỷ lệ này phản ánh khả năng sinh lời hiện tại, còn cho thấy triển vọng sinh lời tương lai của DN.

2. Tỷ lệ giá cả trên giá trị ghi sổ:

Công thức tính:

                Giá cổ phiếu

                    Giá trị ghi sổ ròng của 1 cổ phần

Nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 1, cảnh báo khả năng hoạt động công ty yếu.

VI. Đánh giá tình hình tài chính thông qua các chỉ số tính trong bảng lưu chuyển tiền tệ.

Báo cáo dòng tiền cho thấy dòng tiền ra và vào công ty và nguyên nhân thiếu tiền hoặc thừa tiền. Báo cáo dòng tiền mặt là một trong những công cụ hữu ích đối với cán bộ nghiệp vụ phân tích tình hình tài chính DN.

– Dòng tiền ròng sau chi phí hoạt động: Nếu dòng tiền này dương cho thấy DN có thể tự trang trải các nhu cầu hoạt động bằng tiền của mình. Dòng tiền ròng âm cho thấy DN cần có thêm nguồn tiền từ bên ngoài để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Dòng tiền ròng âm cảnh báo tình hình kinh doanh của DN gặp khó khăn.

– Thặng dư (thâm hụt) tài chính: thăng dư tài chính (chỉ tiêu này dương) cho thấy DN đang thừa tiền không chỉ cho hoạt động kinh doanh mà cho cả hoạt động đầu tư, thâm hụt tài chính (chỉ tiêu này âm) cảnh báo tình hình kinh doanh của DN gặp khó khăn

-Vốn huy động từ bên ngoài: Dòng tiền này dương cho thấy DN thiếu tiền đang huy động vốn từ bên ngoài như vay ngắn hạn, dài hạn hay phát hành cổ phiếu để bù đắp khoản thâm hụt từ hoạt động kinh doanh và đầu tư. Dòng tiền này âm cho thấy DN thừa tiền đang tiến hành trả nợ các khoản vay.

– Con số thể hiện thay đổi tăng/giảm tiền tại cuối dòng của báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho thấy lượng tiền ròng từ các hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài trợ vốn. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một công cụ cực kỳ giá trị để hiểu các dòng tiền và khả năng trả nợ của DN thông qua tỷ số thanh toán bằng tiền.

Tỷ số thanh toán bằng tiền

=

Dòng tiền ròng sau chi phí hoạt động

Nợ ngắn hạn

Tỷ số thanh toán bằng tiền cho biết khả năng trả nợ các khoản nợ ngắn hạn từ dòng tiền DN tạo ra. Tỷ số này càng lớn khả năng thanh toán của DN càng cao và ngược lại.

Bước 3: Tổng hợp tình hình tài chính tài chính của DN:

Trên cơ sở tổng hợp tình hình tài chính tài chính của DN, cán bộ BL phải đưa ra được nhận định chung:

– Tình hình tài chính DN thế nào? (tốt hay xấu);
– Khả năng điều hành hoạt động kinh doanh thế nào?
– DN có khả năng về vốn để thực hiện dự án không.

http://www.SAGA.vn – thuanpd

Phân tích ngân hàng ACB – Phân tích tài chính – Các chỉ tiêu đặc thù

Các chỉ tiêu đặc thù của ngành ngân hàng. Hệ số an toàn vốn CAR, tỉ lệ lãi biên NIM (Được phân tích theo thời gian và so sánh với các ngân hàng khác).

Cho dù một tổ chức tài chính chuyên về cho vay thương mại hay cho vay tiêu dùng, trái tim và tâm hồn của ngành ngân hàng được tập trung vào một thứ: Quản trị rủi ro.

Ngân hàng chấp nhận 3 dạng rủi ro: (1) Rủi ro tín dụng, (2) Rủi ro thanh khoản, và (3) Rủi ro lãi suất. Bài phân tích đánh giá khả năng quản trị rủi ro của ACB trên cả 3 loại rủi ro cơ bản trên.

Mục đích xuyên suốt của phần phân tích tài chính ACB là trả lời cho câu hỏi quan trọng: ACB có xây dựng được cho mình mình một “thế mạnh kinh tế” (economic moat) hay không? thế mạnh kinh tế phản ánh những đặc trưng giúp cho công ty hoạt động tốt giữ được vị thế của mình.

Và câu trả lời của bài phân tích là: Thông qua phân tích tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư bằng các chỉ tiêu ROA và ROCE (cao và thường xuyên),các sản phẩm của ngân hàng đa dạng, hấp dẫn, và nhiều dich vụ tiện ích gia tăng kèm theo, đồng thời đầu tư mạnh vào công nghệ, có thương hiệu mạnh trong hệ thống ngân hàng thương mại, hơn nữa ACB có những chính sách quản lý chặt chẽ và hiệu quả về chi phí, nhóm đánh giá ngân hàng ACB là ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động hiệu quả, với những kết quả kinh doanh trong quá khứ của ngân hàng và các yếu tố vừa nêu nhóm nhận định ACB đã xây dựng được cho mình một “thế mạnh kinh tế” (economic moat), điều này là cơ sở cho việc tin tưởng rằng ACB duy trì được tăng trưởng thu nhập cao trong tương lai. Đây là cơ sở quan trọng trong việc phân tích triển vọng, dự phóng và định giá cổ phiếu ACB.

Chi tiết phân tích mời xem trong file đính kèm:

http://www.SAGA.vn – manh_tcdn